BIỆN PHÂN CẦU NGUYỆN
(suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXX thường niên
Luca 18,9-14)
Biện phân cầu nguyện là một nghệ thuật để nhận biết sự
giả trá của những cảm xúc ở nội tâm chúng ta, trong mối tương giao với Thiên
Chúa. Có những hình thái giả trá thật tinh vi, khiến chúng ta không kiểm soát
được chính mình. Nó lẹ làng đi vào thật khẽ và ẩn nấp dưới những dạng thật đẹp
mà chúng ta không ngờ đến. Đó chính là những thực trạng bi đát, sự yếu đuối và
mỏng manh của phận người.
Dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, là
một điển hình sắc nét cho những hình thái trong đời sống cầu nguyện.
Chúa
Giêsu đã giáo huấn cho các môn đệ của Ngài một phương cách thật bén nhạy, để có thể tỉnh thức và biện phân đâu
là thái độ cầu nguyện đích thực.
Có thể nói đây là một giáo huấn rất thực tế
cho những ai muốn sống đời cầu nguyện, phân định ý Chúa.Và cho những ai muốn
trở nên một người bạn thiết nghĩa của
Ngài. Để hiểu được giáo huấn này chúng ta cần phải xác định cầu nguyện là gì và
đâu là điều chính yếu của cầu nguyện ?
Có
nhiều câu trả lời cho định nghĩa này, Nếu chúng ta đọc các tiểu phẩm của các vị thánh trong Giáo Hội sẽ thấy được vẻ phong phú của cầu nguyện. Mỗi vị có một con đường khác nhau
để sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Tất cả vẫn diễn tả được nét chính yếu của việc
cầu nguyện đó là sự “gặp gỡ Thiên
Chúa”. Tương giao gặp gỡ thì mang nhiều sắc thái : nghe, nói, nhìn, bên nhau,
nhận diện, trao đổi...vv.
Với thực tế, hành trình sống tương giao với
Thiên Chúa là một hành trình của đức tin, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải biết khát
khao, kiên trì, tìm kiếm. Và sự biện phân của nó luôn là một Ân ban. Một nghệ
thuật của bề dày kinh nghiệm với những khẽ chạm của Thần Khí Chúa. Bởi vì, thực
ra chính “ Thần khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không
biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp
chúng ta bằng những tiếng rên xiết khôn tả” (Rm 8, 26)
Bởi đó, cầu nguyện cần có một thái độ nội tâm
đúng đắn để có thể mở ra cho Thần Khí
dẫn dắt. Đó chính là điều mà Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ của Ngài khi đưa ra
hai thái độ cầu nguyện của người pharisiêu và người thu thuế.
“ Hai
người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm pharisiêu, còn người kia làm
nghề thu thuế” (câu 10)
Khởi đi từ một ý hướng tốt lành, muốn gặp gỡ Thiên Chúa
và quyết tâm để gặp được Ngài. Cả hai cùng bước vào một hành trình “lên đền thờ”.
Có lẽ khởi điểm của mỗi người không giống nhau. Vì
họ ở vào hai hoàn cảnh tương phản nhau. Nhưng họ đều thể hiện lòng khao khát và xác định một không
gian cho cuộc gặp gỡ. Đền thờ là nơi
chốn tuyệt đẹp mà cả hai đều chọn để đáp lại một cuộc hẹn hò với Thiên Chúa. Họ trải
qua một khởi điểm thật đẹp!
Xuất thân từ hai nguồn gốc khác nhau, nên hai
người mang theo những chất liệu cầu nguyện khác nhau. Chất liệu của người
Pharisiêu là những ân huệ tốt lành mà Thiên Chúa ban cho ông. Còn người thu
thuế là tất cả những gánh nặng yếu đuối phận người đang hiện thực trong cuộc sống của ông. Cả hai hình
thái đều tốt đẹp trước mặt Thiên Chúa.
Chúa Giêsu khi nói về dụ ngôn này, bên cạnh ý
nhắm đến xu hướng của những người đương thời thường tự hào cho mình là công
chính lề luật để khinh chê kẻ khác. Ở đây, có lẽ thánh Luca còn muốn trình bày
cho tất cả những ai muốn trở nên môn đệ của Đức Giêsu, một giáo huấn thâm sâu hơn trong đời sống cầu nguyện. Những tác động của các thần, sự cảnh tỉnh và biện
phân. Quả thế thánh sử Luca đã cố ý sắp xếp đoạn văn này tiếp theo sau dụ ngôn “quan
tòa bất chính và bà góa quấy rầy”, trong bối cảnh giáo huấn cho các môn đệ của
Ngài. Qua đó nhấn mạnh hơn giá trị và sự cần thiết của đức tin trong mối tương
quan mật thiết với Thiên Chúa. Và trong hành trình được ơn công chính hóa.
Hai hình thái cầu nguyện của người Pharisiêu
và người thu thuế.
đã làm nổi rõ được hai tình trạng của tâm hồn,
hai giai đoạn của đời sống tâm linh. Điều
mà thánh I Nhã đã nói đến, đó là hai hướng đi căn bản của linh hồn và những quy
tắc nhận định chuẩn mực của nó.
Khi xem xét, chúng ta để ý đến tình cảm nổi
lên trong lòng của hai người cầu nguyện.Tình cảm ấy được bộc lộ qua tư thế và
dáng vẻ bên ngoài : Người Pharisiêu “đứng
thẳng”. Một tư thế an nhiên đáng thèm của một tâm hồn công chính, tự tin,
không vương chút áy náy ái ngại.
: “ Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa vì con
không như bao kẻ khác, trộm cắp, bất chính, ngoại tình... con ăn chay mỗi tuần
hai lần, dâng 1/10 thu nhập...” Những điều ông kể qua lời thầm nguyện, quả
là những việc làm thật tốt lành. Đó là
những ân huệ của Thiên Chúa ban. Ông không có điều gì phiền muộn. Trái lại có
vẻ ông rất hài lòng,an tâm hạnh phúc vì những ân huệ đó.
Thế nhưng, điều ông không ngờ chính là sự giả
trá của tình cảm đang len lỏi vào tâm hồn và đánh lừa ông. Ông đã thiếu sự cảnh tỉnh chính mình để sa vào sự dẫn
dắt của thần xấu cách nhẹ nhàng mà ông không hề hay biết ! Lẽ ra tâm tình biết ơn sẽ càng làm cho người
Pharisiêu nhận ra mình bất xứng hơn
trước tình thương lớn lao mà Chúa đã dành ban cho mình, để đi vào mối tương giao với Ngài cách thâm sâu
hơn. Thì trái lại nó kéo ghì ông không
thể đi vào được tương giao với Ngài. Ông đã dừng lại để tự hào, so sánh với
người khác, khinh dể người khác và kể công với Chúa
Quả
vậy, Ngay cả trong những hành vi tốt lành, thánh thiện của chúng ta vẫn không
loại trừ sự hoạt động len lỏi của thần xấu. Và mãnh lực tương phản này thật
tinh tế, đã đan xen vào cùng với những ánh sáng nhẹ nhàng của Thần Khí. Một sự
đan quyện mà ta cần tỉnh thức luôn để chọn lựa mỗi ngày.
Nơi người pharisiêu, bóng tối của sự kiêu căng
tự phụ đã lẻn vào cách mau chóng, tinh vi,hợp thời hợp cảnh, và nó đã cầm được
bánh lái của nội tâm ông. Phải chăng ông không ngờ vì hoạt động của thần xấu có
vẻ như đã đi cùng chiều với Thần Khí. Lối đi của nó cũng nhẹ nhàng và êm dịu
như “ nước thấm vào bông gòn và tiến vào
linh hồn một cách yên lặng như người ta bước vào nhà mình khi cửa mở sẵn”(
theo quy tắc 7 tuần thứ hai số 335 của
thánh I Nhã).
Một thứ
ru ngủ và bình an giả tạo đã dẫn ông đi
vào vòng lẩn quẩn của chính mình. Ông đã dừng lại ở đó và không thể đi tiếp hành trình gặp gỡ với Thiên Chúa.
Thật đáng tiếc! Ông đã không gặp được Thiên
Chúa, mà chỉ cuộn tròn trong chính mình. Bởi chỉ dừng lại ở chính mình, nên
người pharisiêu cầu nguyện đúng hơn là độc thoại với mình. Ông chưa thực sự gặp gỡ được Thiên Chúa
và tha nhân.
Điều bi thảm của ông ở chỗ chính những việc tốt ông làm, và chính
những ân huệ tốt lành Thiên Chúa ban lại
là điều cản trở ông tiến vào gặp gỡ Ngài. Ông đã dừng lại ở những ân huệ, những
việc ông làm mà không tiến sâu vào được cuộc tương giao với chính Đấng đã ban
ân huệ cho ông. Bước đi của ông nơi đền
thờ là những bước lầm lạc, và sa vào bẫy của thần xấu mà chưa kịp phản tỉnh .Thực sự, ông đã thiếu tỉnh
thức để biện phân chọn lựa . Cũng như ông đã
thiếu bước “xét gẫm” mà thánh I Nhã đã khuyên dạy để nhận định giờ cầu nguyện
của mình. Nên thật đáng tiếc hơn, cho tới khi trở về nhà, người Pharisiêu vẫn
chưa nhận ra sự lầm lạc của mình. Đó chính là những ngõ cụt trong đời sống cầu
nguyện mà tất cả những ai bước vào đều có ít nhiều những trải nghiệm.
Còn người thu thuế thì sao? Xem ra người thu
thuế có nhiều sự phiền muộn, áy náy, ân hận về
thực tại của cuộc sống mình. Bằng cớ là ông đã đứng đằng xa, không dám
ngước mắt nhìn lên, và luôn đấm ngực ăn năn. Tác động của Thiên Chúa nơi tâm
hồn người thu thuế “như nước chảy trên
đá tạo ra những tiếng vang dội” bắt ông phải bước ra khỏi chính mình để suy xét
về mình. Và ông đã gặp được Thiên Chúa
ngay khi ông bước ra khỏi mình.
Thánh Luca thật thành công khi viết bản văn
Tin Mừng, đã chọn lựa từ ngữ diễn tả tư
thế cầu nguyện của người thu thuế. Ông “đứng đằng xa”. Một khoảng cách không
chỉ diễn tả về không gian trong đền thờ. Nhưng có lẽ còn diễn tả ở một chiều
kích thiêng liêng khác trong tương quan với chính mình và tương quan với Thiên Chúa. Một khoảng cách “
xa”với chính mình để ông ra khỏi mình.
Và một khoảng cách cho những “kinh nghiệm” với Thiên Chúa. Đó là “trực giác” xảy ra trong khoảnh khắc, của một
người vừa nhận ra sự hiện diện đích thực
của Thiên Chúa. Đấng Tốt Lành và thánh thiện vô cùng. Cảm nhận của một khoảng cách “thật gần”,
nhưng đồng thời lại “thật xa”. Xa vì được soi mình trong gương của Đấng tốt lành ấy
để nhận ra mình thật trần trụi, bất xứng! Để giúp hiểu được kinh nghiệm này, chúng ta nhớ lại trực giác của thánh Phêrô khi nhận ra Chúa
Giêsu trên biển hồ đã vội thốt lên rằng
: “Lạy Chúa xin tránh xa con, vì con là
kẻ tội lỗi”.
Đối
diện thực sự với Thiên Chúa chúng ta sẽ nhận ra sự thật về chính mình. Cũng thế
người thu thuế “Thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời” “ vừa đấm ngực vừa thưa
rằng : “Lạy Thiên Chúa xin thương xót con
là kẻ tội lỗi”. Quả vậy, người thu
thuế đã gặp được Thiên Chúa, và lòng thương xót của Ngài đã thực sự sờ chạm
Ông. Ông đã được trở nên công chính.
“Tôi nói
cho các ông biết người này khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính
rồi, còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ
mình xuống sẽ được nâng lên” (câu 14)
Suy niệm Tin Mừng này chúng ta dễ dàng có cái
nhìn phân tách giữa người Pharisiêu và người thu thuế. Hai loại người, hai tầng
lớp tương phản nhau trong xã hội. Người pharisiêu điển hình cho người công
chính dựa theo lề luật. Còn người thu thuế thì điển hình cho hạng tội lỗi công
khai. Nhưng nếu nhìn trong hành trình của đời sống cầu nguyện thì đây là hai
hình thái tồn tại đan xen nơi mỗi người
chúng ta. Và Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức, biện phân và lựa
chọn mỗi ngày. Hầu mỗi chúng ta hoàn thành những điều Thiên Chúa muốn trong
cuộc đời của mình.
Lạy Chúa Giêsu !
Xin thương xót con là kẻ tội lỗi.
Maria.Bernadet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét